News Kỹ thuật ảo hóa và các kiểu ảo hóa căn bản

Thảo luận trong 'Tin công nghệ' bắt đầu bởi minhduongpro, 13/4/20.

  1. minhduongpro PageRank 2 Member

    Tham gia ngày:
    21/7/17
    Ảo hóa hệ thống lưu trữ về căn bản là sự mô hình, kém chất lượng lập việc lưu trữ trong khoảng những trang bị lưu trữ vật lý. Những trang bị này có thể là băng từ, ổ cứng hay kết hợp cả hai cái. Việc khiến cho này có lại những ích lợi như việc nâng cao tốc khả năng truy nã xuất dữ liệu, do việc phân chia các tác vụ đọc, viết trong mạng lưu trữ. Ngoài ra, việc mô phỏng các vật dụng lưu trữ vật lý cho phép tiết kiệm thời gian hơn thay vì phải định vị xem máy chủ nào hoạt động trên ổ cứng nào để truy nã xuất.

    Ảo hóa hệ thống lưu trữ có ba dạng mô phỏng sau đây:

    - Host-based: Trong mô hình này, ngăn phương pháp giữa lớp ảo hóa và ổ đĩa vật lý là driver điều khiển của các ổ đĩa. Phần mềm ảo hóa sẽ tầm nã xuất tài nguyên (các ổ cứng vật lý) thông qua sự điều khiển và tầm nã xuất của lớp Driver này.

    - Storage-device based: Trong dạng này, phần mềm ảo hóa giao du trực tiếp với ổ cứng. Ta sở hữu thể xem như đây là 1 dạng firmware đặc trưng, được cài trực tiếp vào ổ cứng. Dạng này cho phép truy tìm xuất nhanh nhất đến ổ cứng, nhưng cách thiết lập thường cạnh tranh và phức tạp hơn những mô phỏng khác. Dịch vụ ảo hóa được sản xuất cho các Server phê chuẩn 1 đồ vật điều khiển gọi là Primary Storage Controller.

    - Network-based: Trong mô hình này, việc ảo hóa sẽ được thực thi trên 1 vật dụng mạng, ở đây sở hữu thể là một đồ vật switch hay một máy chủ. Các switch hay máy chủ này kết nối mang những trung tâm lưu trữ (SAN). Trong khoảng những switch hay server này, những áp dụng kết nối vào được giao du với trọng tâm dữ liệu bằng các “ổ cứng” mô phỏng do switch hay máy chủ tạo ra dựa trên trọng điểm dữ liệu thật. Đây cũng là mô hình hay gặp nhất trên thực tế.

    >>> Xem thêm: bán máy chủ HP ML350 Gen10

    2. Ảo hóa hệ thống mạng

    Ảo hóa hệ thống mạng là 1 tiến trình hợp nhất tài nguyên, trang bị mạng cả phần cứng lẫn phần mềm thành một hệ thống mạng ảo. Sau đó, các tài nguyên này sẽ được phân chia thành những channel và gắn sở hữu 1 máy chủ hoặc 1 đồ vật nào ấy.

    với đa dạng phương pháp để thực hiện việc ảo hóa hệ thống mạng. Những phương pháp này tùy thuộc vào những trang bị tương trợ, nghĩa là những dịch vụ đồ vật đấy, tuy nhiên còn phụ thuộc vào cơ sở vật chất mạng sẵn có, cũng như dịch vụ nhà sản xuất mạng (ISP).Sau đây chúng tôi sẽ giới thiệu một vài mô hình ảo hóa hệ thống mạng:

    - Ảo hóa lớp mạng (Virtualized overlay network): Trong mô hình này, phổ thông hệ thống mạng ảo sẽ cộng còn đó trên một lớp nền tài nguyên sử dụng chung. Những tài nguyên đấy bao gồm các vật dụng mạng như router, switch, các dây truyền dẫn, NIC (network interface card). Việc thiết lập phổ thông hệ thống mạng ảo này sẽ cho phép sự luận bàn thông tỏ giữa những hệ thống mạng khác nhau, sử dụng những giao thức và dụng cụ truyền chuyển vận khác nhau, tỉ dụ như mạng Internet, hệ thống PSTN, hệ thống Voip.

    - mô phỏng ảo hóa của Cisco: ấy là phân mô hình ảo hóa ra làm 3 khu vực, sở hữu các chức năng chuyên biệt. Mỗi khu vực sẽ mang các kết liên mang những khu vực khác để phân phối những giải pháp đến tay quý khách một bí quyết thông suốt:

    + Khu vực điều hành tầm nã cập (Access Control): với nhiệm vụ chứng thực quý khách muốn đăng nhập để sử dụng tài nguyên hệ thống, qua ấy sẽ ngăn chặn những tróc nã xuất không hợp lệ của người dùng; tuy nhiên khu vực này còn rà soát, công nhận và chứng nhận việc truy hỏi xuất của người dùng trong vào các vùng hoạt động (như là VLan, Access list).

    + Khu vực trục đường dẫn (Path Isolation): Nhiệm vụ của khu vực này là duy trì giao thông chuẩn y tầng Network, vận tải giao thông giữa các vùng khác nhau trong hệ thống. Trong các vùng này dùng giao thức khác nhau, như MPLs và VRF, vì vậy cần 1 cầu nối để giao thông giữa chúng. Ngoài ra, khu vực này sở hữu nhiệm vụ kết liên (maping) giữa những trục đường truyền dẫn với các vùng hoạt động ở 2 khu vực cạnh nó là Access Control và services Edge.

    + Khu vực kết liên mang nhà cung cấp (Services Edge): Tại đây sẽ áp dụng những chính sách phân quyền, cũng như bảo mật ứng sở hữu từng vùng hoạt động cụ thể; đồng thời qua đấy phân phối quyền truy nã cập tới dịch vụ cho các bạn. Các nhà sản xuất mang thể ở dạng san sớt hay phân tán, tùy thuộc vào môi trường tăng trưởng áp dụng và buộc phải của người dung

    >>> Xem thêm: HPE ML30 Gen10



    3. Ảo hóa vận dụng

    Ảo hóa áp dụng là 1 dạng khoa học ảo hóa khác cho phép chúng ta tách rời mối kết liên giữa vận dụng và hệ quản lý và cho phép sản xuất lại áp dụng phù hợp sở hữu nhu cầu user. 1 Vận dụng được ảo hóa sẽ ko được cài đặt lên máy tính một bí quyết thường nhật, mặc dầu ở góc độ người tiêu dùng, ứng dụng vẫn hoạt động 1 phương pháp bình thường. Việc điều hành việc cập nhật phần mềm trở thành dễ dàng hơn, giải quyết sự đụng độ giữa các áp dụng và việc thể nghiệm sự tương xứng của chúng cũng phát triển thành tiện lợi hơn. Hiện tại đã mang khá nhiều chương trình ảo hóa vận dụng như Citrix XenApp, Microsoft Application Virtualization, VMware ThinApp ... Với hai chiếc khoa học chủ yếu sau:

    - Application Streaming: áp dụng được chia thành phổ thông đoạn mã và được truyền sang máy người dùng lúc cần tới đoạn mã đấy. Các đoạn mã này thường được đóng gói và truyền đi dưới giao thức HTTP, CIFS hoặc RTSP

    - Desktop Virtualization/Virtual Desktop Infrastructure (VDI): vận dụng sẽ được cài đặt và chạy trên 1 máy ảo. Một cơ sở vật chất quản lý sẽ tự đông tạo ra các desktop ảo và cung cấp các desktop ảo này đến những đối tượng dùng.

    4. Ảo hóa hệ thống máy chủ

    Ảo hóa hệ thống máy chủ cho phép ta với thể chạy rộng rãi máy ảo trên một máy chủ vật lý, mang đến phổ quát lợi ích như nâng cao tính di động, thuận tiện thiết lập có các máy chủ ảo, giúp việc quản lý, san sớt tài nguyên thấp hơn, qu ản lý luồng làm việc phù hợp mang nhu cầu, tăng hiệu suất làm việc của một máy chủ vật lý.

    Xét về kiến trúc hệ thống, các mô hình ảo hóa hệ thống máy chủ với thể ở 2 dạng sau:

    - Host-based: Kiến trúc này sử dụng một lớp hypervisor chạy trên nền móng hệ quản lý, tiêu dùng các nhà sản xuất được hệ điều hành sản xuất để phân chia tài nguyên tới các máy ảo. Ta xem hypervisor này là 1 lớp phần mềm riêng biệt, do đó các hệ điều hành khách của máy ảo sẽ nằm trên lớp hypervisor rồi đến hệ quản lý của máy chủ và cuối cùng là hệ thống phần cứng… một số hệ thống hypervisor dạng Hosted mang thể nhắc tới như VMware Server, VMware Workstation, Microsoft Virtual Server…

    - Hypervisor-based: hay còn gọi là bare-metal hypervisor. Trong kiến trúc này, lớp phần mềm hypervisor chạy trực tiếp trên nền tảng phần cứng của máy chủ, ko duyệt y bất kì 1 hệ quản lý hay một nền móng nào khác. Qua đấy, các hypervisor này mang khả năng điều khiển, kiểm soát phần cứng của máy chủ. Đồng thời, nó cũng sở hữu khả năng điều hành các hệ quản lý chạy trên nó. Kể cách khác, các hệ quản lý sẽ nằm trên các hypervisor dạng bare-metal rồi tới hệ thống phần cứng. Một số ví dụ về những hệ thống Bare-metal hypervisor như là Oracle VM, VMware ESX Server, IBM's POWER Hypervisor, Microsoft's Hyper-V, Citrix XenServer…

    >>> Xem thêm: ThinkSystem SR950
     
    Quan tâm nhiều
    Xem thêm: bởi i9bettcfd, 19/10/24 lúc 22:26
    Xem thêm: bởi i9bettcfd, 19/10/24 lúc 22:25
    Xem thêm: bởi i9bettcfd, 19/10/24 lúc 22:24
    I9BET bởi i9bettcfd, 19/10/24 lúc 22:23
    I9BET bởi i9bettcfd, 19/10/24 lúc 22:21
    #1

Chia sẻ trang này