Diễn Đàn SEO - vnseo.edu.vn - Hiệu chuẩn lực độ cứng là khả năng chịu đựng cản lại sự biến dạng của vật tư rắn dưới tác dụng của một lực nào đấy, thường là lực đâm xuyên. Một số thang đo độ cứng? 1. Độ cứng MOHS Là dòng thang đo độ cứng đa số để dành cho các loại khoáng vật. Thang đo này đặc trưng cho năng lực làm trầy xước hoặc cản lại trầy xước dựa trên những mẫu khoáng vật khác nhau. Khoáng vật nào có tính cứng lớn hơn một ít sẽ làm trầy được khoáng vật có độ cứng bé hơn. Thang đo này phân biệt, “kim cương” là vật liệu cứng nhất. Cách này chỉ mang tính chất đối chiếu tương đối, không đưa ra các kết quả chính xác, chỉ có ý nghĩa trong điều tra nghiên cứu tính chất của tinh thể, ít được ứng dụng trong cung cấp, đo lường trong thực tế. 2. Độ cứng Brinell Là dòng thang đo độ cứng lâu đời và đã được ứng dụng khá rộng rãi. Đó là giải pháp đo thuộc dạng ấn lõm. Mũi thử có đầu là một trong những viên bi có đường kính D và lực ấn P. Xác minh, công dụng lực vuông góc lên bề mặt dòng thử trong một thời gian xác định, tạo nên vết lõm. Kế tiếp, khẳng định 2 lần bán kính vết lõm, tính được độ cứng, ký hiệu là HB. đặc trưng của giải pháp Brinell: Cần kính lúp có vạch đo, hoặc kính hiển vi, máy đo quang học để xác định vết lõm. Lực ấn lõm chỉ tiện ích 1 lần trên mặt loại thử phương pháp đo nhanh, độ chính xác không vượt quá cao Không vận dụng cho vật tư quá cứng, tấm mỏng, bề mặt cong 3. Độ cứng Rockwell đây cũng là 1 trong loại thang đo độ cứng phổ biến lúc này, dựa trên giải pháp đo thuộc dạng ấn lõm. Điểm khác biệt khi đối chiếu với phương pháp Brinell, đây chính là phương pháp Rockwell sẽ ấn 2 lần lên bề mặt dòng thử. Chênh lệch độ lún sâu giữa 2 lần ấn lực sẽ được dùng để tính toán độ cứng. Như vậy, cách này không cần mạng lưới hệ thống quang học để đo kích thước vết lõm. Đơn vị chung cả của thang đo Rockwell là HR (Hardness Rockwell). sử dụng phương pháp này dùng 2 dòng mũi đo: đầu bi (Carbide Tungsten) và mũi kim cương dạng chóp, góc đỉnh 120º (kim cương). đặc thù của phương pháp Rockwell: Lực ấn lõm ích lợi 2 lần trên mặt loại thử, cần thời gian để đạt đúng chiều sâu ở các lần ấn lực. giải pháp đo nhanh, độ chính xác cao. Chỉ vận dụng với chi tiết có phạm vi nhỏ. không phù hợp với vật liệu tấm mỏng, xi mạ. Thang đo rộng do có một số loại đơn vị đo, có thể quy đổi đơn vị đo cùng hệ Rockwell. 4. Độ cứng Vicker đó cũng là 1 trong loại thang đo độ cứng thịnh hành lúc này, dựa vào phương pháp đo thuộc dạng ấn lõm. Phương pháp gần giống với phương pháp Brinell, nhưng độ chính xác cao hơn. trên hết, kiểm soát và điều chỉnh mạng lưới hệ thống quang học để nhìn được rõ bề mặt của mẫu. Tiếp nối, mũi chóp kim cương sẽ ấn với lực bổ nhiệm một lần. Hai đường chéo của vết lõm và lực ấn sẽ được sử dụng để tính toán độ cứng, đơn vị đo là HV. Phương pháp này sử dụng mũi kim cương dạng chóp, góc 2 cạnh đối lập 136º. đặc trưng của giải pháp Vicker: Cần kính hiển vi, máy đo quang học để khẳng định bề mặt dòng cũng như vết lõm. Lực ấn lõm tác dụng 1 lần trên mặt loại thử, cần thời gian để hình thành vết lõm rõ ràng. giải pháp đo được độ cứng các bộ phận chi tiết nhỏ, đòi hỏi bề mặt được gia công tỉ mỉ. Đo được độ cứng vật liệu mỏng, lớp phủ. Xem thêm bài viết về Điện - Điện tử - Tần số. 5. Độ cứng Leeb Độ cứng Leeb thuộc giải pháp đo theo kiểu bật nẩy của bi đo. Theo nguyên lý động lực Leeb, giá trị độ cứng được tính từ sự mất năng lượng của vật thể va chạm xác minh sau thời điểm ảnh hưởng lên một mẫu sắt kẽm kim loại. Chỉ số Leeb (vi, vr) được lấy làm thước đo tổn thất năng lượng do biến dạng dẻo: loại thử càng cứng thì vận tốc phản lực của bị đo hồi phục kịp thời hơn so hình mẫu mềm hơn. Một bộ từ tính phía bên trong ống đo điện áp thay đổi khi bị đo nẩy lại, di chuyển sang cuộn dây đo. Giải pháp Leeb cũng có tương đối nhiều đơn vị đo, ta có thể nhận thấy dựa trên đặc trưng của phương pháp Leeb. đặc thù của phương pháp Leeb: Là giải pháp đo cơ động và nhanh gọn. Đo được những mẫu có size lớn và khối lượng >1kg. Có thể chuyển đổi sang quá nhiều đơn vị đo khác. Độ chính xác và độ lặp lại tại mức kha khá, thấp hơn khi đối chiếu với các loại máy bàn của Rockwell, Vicker. 6. Độ cứng SHORE Độ cứng SHORE dùng phương pháp đo độ cứng SHORE được tăng trưởng bởi ông Albert F. Shore vào trong năm 1920. Đồ vật đo độ cứng là máy đo độ cứng Durometer. Máy này dùng trọng lượng được áp vào nhờ một lực lò xo. Trị giá độ cứng sẽ được xác định bằng sự xuyên qua của đầu đo Durometer vào loại thử. Vì cao su và nhựa có tính đàn hồi nên giá cả độ cứng có thể chuyển qua thời gian, tức là thời gian tác dụng lực ấn vào mặt loại thử đôi chút cũng được xem là giá trị của độ cứng. giải pháp đo độ cứng Shore được dùng để đo những chất dẻo như polime, cao su, polyolefins, fluoropolymers và vinyls. Thang đo được dùng là thang đo Shore A – sử dụng với vật liệu bằng cao su mềm và thang đo Shore D – dùng cho vật liệu cứng hơn.